NGUỒN GỐC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA QUỶ VƯƠNG 

0
1049
Quỷ Vương trong Cơ Đốc giáo phát triển từ ý niệm và phép nhân hóa cái ác của văn hóa Lưỡng Hà, Ai Cập, từ các truyền thuyết kinh điển và quỷ học Do Thái. Những vị thần Ai Cập mang cả khía cạnh xấu và tốt, nhưng vị thần Set được coi là xấu xa hơn hết thảy. Là người anh trai độc ác của Osiris, Set đại diện cho sự hỗn mang, phá hủy. Trong thần thoại, hắn giết Osiris, chia xác em trai thành nhiều mảnh và phân tán những phần cơ thể đó. Vợ của Osiris, Isis, đã thu thập xác chồng lại và hồi sinh Osiris đủ lâu để có thể sinh con, đó là vị thần Horus.
Những con quỷ thần thoại Lưỡng Hà cũng là con cái của các vị thần, chẳng hạn như Tiamat, vị nữ thần của hỗn mang và dòng chảy nguyên thủy, cùng với người đồng hành của mình, Apsu, hay vị thần cấp cao Anu. Những con quỷ kiểm soát dịch bệnh, những cơn ác mộng, thiên tai, và mọi bất hạnh đổ xuống vạn vật. Chúng có vẻ ngoài kỳ quái, bị biến dạng và thường có cơ thể nửa người, nửa thú. Để bảo vệ mình khỏi chúng, con người sử dụng bùa hộ mệnh, lời cầu nguyện và phép thuật.
Trong Hỏa giáo, vị thượng thần Ahuru Mazda (sau trở thành Ohrmazd), sinh ra một cặp sinh đôi là Spenta Mainyu – tượng trưng cho sự thánh thiện, và Angra Mainyu (hay Ahriman) – độc ác và phá hoại. Câu chuyện về sự hình thành 2 vị thần này có nhiều dị bản khác nhau theo dòng chảy tín ngưỡng Hỏa giáo. Trong một phiên bản, Ahuru Mazda và Ahriman bị chia cắt bởi một khoảng trống (void). Giống như Quỷ vương của Cơ Đốc giáo, Ahriman cư ngụ trong bóng tối nơi đầu kia của khoảng trống và định mệnh của hắn là bị Ohmazd, vị thần lương thiện, đánh bại.
Ahriman nhìn thấy ánh sáng bên kia khoảng trống và thèm muốn nó. Hắn sử dụng những vũ khí hủy diệt của mình, bao gồm dịch ếch nhái, bọ cạp, rắn, sự cám dỗ và hỗn mang để chống lại Ohrmadz. Orhmadz đề nghị một cuộc đình chiến để Ahriman chuộc tội, nhưng hắn từ chối. Orhmadz tiết lộ định mệnh của mình là để đánh bại hắn, đưa Ahriman vào trạng thái vô thức bên ngoài tầm với với khoảng trống trong suốt 3000 năm. Hắn hồi sinh nhờ sự giúp đỡ của Jeh, một gái điếm, và chiến đấu với Ohrmazd trong suốt 6000 năm, báo trước trận chiến cuối cùng sẽ tới vào ngày Khải huyền. Trong 3000 năm đầu, thế lực của cái tốt và xấu giữ cán cân thăng bằng. Trong 3000 năm cuối, cái tốt sẽ chiến thắng cái xấu. Khi tấn công, Ahriman sẽ xé bầu trời ra nhiều mảnh và tạo ra những thời kỳ của bóng tối và sự hỗn loạn, bạo lực và sự phá hủy. Hắn tạo ra rất nhiều binh đoàn quỷ dữ.
Ahriman vấy bẩn người đàn ông và phụ nữ – tổ tiên của loài người – Mashye và Mashyane, bằng cách khiến họ tin vào lời dối trá của hắn rằng, không phải Ohrmazd mà hắn mới là kẻ tạo ra thế giới vật chất. Ohrmazd tạo ra thế lực thánh thiện để trói buộc Ahriman, để cuối cùng thế giới có thể tốt đẹp hơn. Nhưng trong trận đánh cuối của cuộc chiến, cả vũ trụ rung chuyển và phá hoại hầu hết mọi thứ. Những ngôi sao rơi xuống từ bầu trời. Ohrmazd hoặc đã tiêu diệt Ahriman, hoặc đã giam cầm hắn vĩnh viễn.
Trong kinh thư Yasht, Ahriman bị đánh bại bởi sự xuất hiện của Saoshyant, hay vị Thánh Cứu Rỗi. Ba vị Thánh Cứu Rỗi sẽ tới và người thứ ba, con trai của Zarathustra với một trinh nữ sẽ đánh bại cái xấu và mang lại triều đại của ánh sáng. Thế giới được thiết lập lại, cái chết nảy nở sự sống, và sự sống bất diệt ấy sẽ quay trở lại.

Trong các thần thoại kinh điển, những vị nam thần và nữ thần đều có khía cạnh xấu lẫn tốt; không có ai là hoàn toàn xấu xa. Biểu tượng của cái chết là vị thần cai trị ở vương quốc của bóng tối, Hades, với tầng sâu nhất của địa ngục là Tartarus, một hố sâu thăm thẳm mà ở đó, những kẻ xấu xa bị trừng phạt. Những nhà triết học Hy Lạp đã kết nối những luân lý về cái tốt và cái xấu, chỉ ra sự khác nhau trong bản chất đầy mâu thuẫn của loài Daimones, phân loại chúng thành những con quỷ tốt và những con quỷ xấu.
Khái niệm của người Do Thái về Quỷ Vương phát triển khá chậm. Cựu Ước thiên về khái niệm những con quỷ (satans), kẻ vu khống hơn là một thực thể đơn lẻ Satan. Một trong những lần như thế là khi Chúa cho phép một thực thể xuống thử thách lòng tin của Job. Văn học Khải huyền khắc họa những khía cạnh khắc nghiệt và tính trừng phạt của các thiên thần cụ thể, chẳng hạn như Mastema, thiên thần duy nhất được nhắc đến bằng tên gọi trong sách Jubilees. Trong sách Enoch, những Grigori (Watchers) là những thiên thần xấu xa, sa ngã vì ý chí tự do của chính mình, gieo rắc sự xấu xa lên trần gian. Thánh kinh về 12 vị Tông Đồ đã gọi tên Belial, hay Satan, viết đây là thủ lĩnh của những thiên thần sa ngã. Sammael và Azazel cũng là những cái tên khác của các thiên thần lãnh đạo đội quân sa ngã này, cư ngụ trong bóng đêm. Văn học Khải huyền cung cấp về khái niệm nhị nguyên rõ ràng hơn qua việc nhân hóa cái xấu thành Quỷ Vương, kẻ đứng đầu vương quốc bóng tối với vai trò cám dỗ, kết tội và hủy hoại con người.
Trong Hồi giáo, Quỷ Vương không phải là kẻ thù đối đầu với Chúa, mà là một thực thể cấp bậc cao – một thiên thần hoặc Dijinn – đã thà sa ngã còn hơn cúi đầu trước con người đầu tiên Chúa tạo ra, Adam. Quỷ Vương thường được gọi là Shaytan trong Qur’an, một kẻ vu khống và bị đuổi khỏi thiên đàng vì nổi loạn, được Chúa cho phép cám dỗ những linh hồn tội lỗi. Hắn không thể tác động tới những tín đồ của Chúa. Chúa cũng không có quyền năng lên những con quỷ thuộc hạ của hắn – Shaitan. Quỷ dữ là một trong những tạo vật và kế hoạch của Chúa, bao gồm cả trừng phạt và thử thách con người. Kinh Qur’an cũng nhắc đến Iblis như là tên của Quỷ Vương.
Không có ghi chép nào về tội ác nguyên thủy nhất trong kinh Qur’an. Adam và Eve đã phạm tội, nhưng không truyền chúng cho người khác. Con người thường bị cái ác tha hóa, vì vậy mà dễ bị những âm mưu cạm bẫy của quỷ dữ tấn công. Quỷ Vương thề rằng hắn sẽ kéo mọi hậu duệ của Adam vào tầm kiểm soát của mình.
Trong Tân Ước của Cơ Đốc Giáo, hình tượng Quỷ Vương trở nên cụ thể hơn và được coi là kẻ thù của Chúa cũng như con người. Hắn là một thiên thần sa ngã, lãnh đạo đội quân các thiên thần sa ngã khác vốn đã biến thành quỷ dữ, và là đại diện của cái ác. Hắn có sức mạnh tác động lên thế giới vật chất. Thế lực bóng tối của hắn đã giao tranh với đội quân ánh sáng của Chúa. Jesus, con trai của Chúa, đã tới Trái Đất nhằm đánh bại hắn. Trong sách Khải Huyền, lời tiên tri đã được viết rõ rằng khi Chúa Tái Lâm, Người sẽ trói buộc Quỷ Vương suốt một ngàn năm tới, khi đó hắn sẽ xuất hiện lần cuối cùng dưới danh tính là Antichrist (Kẻ Chống đối Thiên Chúa) và bị tiêu diệt hoàn toàn. Chủ nghĩa nhị nguyên trong Cơ Đốc Giáo trở nên phổ biến và chính thống, biểu tượng cho cuộc chiến giữa một bên là vị Chúa của sự thánh thiện, ánh sáng, và vị Chúa của tội ác, bóng tối.
Năm 325, Hội đồng Nicaea đã công nhận rằng Chúa là đấng sáng tạo của vạn vật hữu hình và vô hình. Vì thế, Quỷ Vương khi được tạo ra vốn có bản chất tốt, nhưng đã lựa chọn con đường tội lỗi.
Cơ Đốc Giáo từ sớm đã coi Quỷ Vương là chúa tể của địa ngục và cư ngụ ở đó. Những khái niệm này trở thành quan niệm chính thống trong văn học, với những tác phẩm của các tác giả như Dante và John Milton.
Trong thời phong kiến, Quỷ Vương được coi là một nhân vật có thật, một tạo vật riêng biệt sở hữu những sức mạnh siêu nhiên khủng khiếp và âm mưu chống lại nhân loại bằng cách phá hủy các phẩm chất đạo đức. Với mục đích này, hắn được trợ giúp bởi những đội quân quỷ dữ. Đội quân này càng ngày càng nhiều, bao gồm cả những kẻ dị giáo, pháp sư – kẻ mà sở hữu loại ma thuật tà ác chống lại phép màu mà giáo hội nhà thờ mang đến. Trong đó có cả phù thủy, ban đầu được coi là những pháp sư, sau đó là người ngoại đạo.
Những giáo sĩ thời Phục Hưng và Cải cách Kháng Nghị lan truyền sự sợ hãi Quỷ Vương tới những tín đồ của mình bằng cách không ngừng giễu nại những nỗ lực hủy hoại, khiến con người chống lại Chúa của con quỷ này. Vương quốc của Satan được coi là một thế giới vật chất. Hắn dụ dỗ con người bằng sự giàu có sa đọa, vương giả, đời sống thanh nhàn, mục đích để đày đọa linh hồn con người. Hắn tấn công chủ yếu bằng cách ám nhập. Những khế ước với quỷ đã tồn tại từ thế kỷ thứ sáu luôn được nhấn mạnh, bất kỳ ai giao hợp với quỷ dữ đều có nghĩa đã trở thành một phần của khế ước địa ngục. John Stearne, trợ lý của Matthew Hopkins, một thợ săn phù thủy khét tiếng vào thế kỷ 17 cho rằng, việc những giáo sĩ ám ảnh với Satan đã khích động phù thủy thờ phụng con quỷ này.